Notice: Undefined variable: content in /home/u817475818/domains/checkinhue.vn/public_html/wp-content/themes/flatsome-child/functions.php on line 22

Khám phá lịch sử và kiến trúc của Chùa Diệu Đế

Chùa Diệu Đế đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Phật giáo ở Huế. Đây là một trong 3 ngôi quốc tự của xứ Huế còn tồn tại cho đến ngày nay. Hiện tại, nơi đây đang lưu giữ bức tranh 9 con rồng ẩn hiện trong mây lớn nhất Việt Nam cùng kiến trúc độc đáo. Cùng Check in Huế khám phá nhé.

Giới thiệu chùa Diệu Đế

Chùa Diệu Đế nằm cạnh bên dòng sông Hộ Thành (sông Đông Ba), thuộc số 100B đường Bạch Đằng, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vị trí đặc địa này mang lại cho chùa cảnh quan tươi mát, thoáng đãng. Đến nay, chùa Diệu Đế là một trong những ngôi chùa Huế nổi tiếng và linh thiêng bậc nhất.

Kể từ khi ra đời cho đến năm 1945, chùa Diệu Đế được triều Nguyễn xếp vào hàng Quốc tự (cùng với các chùa Giác Hoàng, Thiên Mụ và Thánh Duyên). Cho đến nay, dù trải qua nhiều biến động lịch sử, chùa vẫn giữ được nhiều pháp bảo quan trọng. Đặc biệt, tại trần của điện Đại Giác vẫn còn bảo tồn được bức tranh “Long vân khế hội”, tương truyền do nghệ nhân cung đình Phan Văn Tánh thực hiện.

Chùa Diệu Đế là một danh lam tiêu biểu của Huế, vùng đất được mệnh danh là xứ sở Thiền kinh. Hàng năm, Lễ tắm Phật, rước Phật của Phật giáo Huế được tổ chức tại chùa trong mùa Phật đản. Điểm đặc biệt ở đây là ngôi chùa này mang nhiều đặc trưng yếu tố cung đình, gắn liền với vua Thiệu Trị, vị hoàng đế thứ ba của triều Nguyễn.

Lịch sử của chùa Diệu Đế

Khuôn viên chùa Diệu Đế, xưa vốn là đất phủ Phúc Quốc công Hồ Văn Bôi – cha của bà Hồ Thị Hoa, là Tá Thiên Nhân Hoàng hậu của vua Minh Mạng. Tại mảnh đất này, năm 1807 bà Hồ Thị Hoa đã sinh ra hoàng tử Nguyễn Phúc Dung (sau đổi thành Nguyễn Phúc Miên Tông) cho vua Minh Mạng. Hoàng tử Miên Tông đã lớn lên tại ấp Xuân Lộc ở phía Đông của Kinh thành này, và sau đó trở thành vua Thiệu Trị (1840 – 1847) – vị vua thứ 3 của triều Nguyễn.

Đến giữa năm 1844 vua Thiệu Trị cho xây dựng một ngôi chùa trong vương phủ thời thơ ấu mình, theo lời tâu của quần thần “xin lập ngôi chùa ở đất quý phát phúc để cầu phúc cho dân”. Chùa được đặt tên là Diệu Đế, với ý nghĩa – theo ý văn bia – “… là nơi hun đúc và thể hiện nét văn hoá vô cùng tuyệt diệu, tận nguồn cội thâm uyên đều được hiển bày qua chân như mật đế …”.

Đến tháng 5 năm 1885, kinh thành bị thất thủ, quân Pháp chiếm đóng một số địa điểm quan trọng của triều đình. Nam Triều phải lấy Trí Tuệ tịnh xá, Cát Tường từ thất của chùa Diệu Đế để làm trú sở cho phủ đường Thừa Thiên. Sang năm 1887, đa số các dãy nhà của chùa bị triệt hạ. Còn lại Đại Giác điện, Chung lâu, Đạo Nguyên các, cổ lâu, trung đình và tam quan lâu còn giữ lại. Năm 1889, vua Thành Thái ban cho Hòa thượng Thanh Minh – Tâm Truyền 3000 quan tiền để trùng tu chùa Diệu Đế, tuy nhiên vẫn không thể khôi phục lại quy mô như cũ.

Năm 1904, một cơn bão lớn đã làm sụp đổ một số điện thờ. Đến năm 1910, gác Đạo Nguyên do bị hư hỏng nặng nên phải triệt hạ, chỉ còn hại cổ lâu và chung lâu. Đến năm 1953, Hòa thượng Diệu Hoằng đã trùng tu lại chùa dưới sự giúp sức của bà Từ Cung và các Phật tử. Chùa Diệu Đế khi ấy có quy mô được thu gọn như ngày nay.

Khám phá kiến trúc độc đáo của chùa Diệu Đế 

Khuôn viên chùa hiện nay rộng khoảng 2.500m2. Chung quanh có la thành bao bọc, cửa chùa hướng về sông Đông Ba và Kinh Thành Huế. Khi mới xây dựng, bên trong la thành có khoảng 10 công trình kiến trúc.

Chùa Diệu Đế ra đời gắn liền với nơi ở của Hoàng gia nên nơi đây được trang trí đậm nét vương giả. Ghé thăm chùa, tham quan, vãn cảnh và lắng nghe tiếng chuông chùa Diệu Đế, du khách giống như lạc vào chốn thiên đàng trên cõi trần vương quốc.

Khuôn viên chùa nằm gọn giữa bốn con đường: phía trước là đường Bạch Ðằng chạy dọc theo một nhánh sông Hương, phía sau là đường Tô Hiến Thành gần chùa Diệu Hỷ, bên trái là con đường mang tên chùa Diệu Đế và bên phải là đường Chùa Ông. Kiến trúc ban đầu của chùa rất qui mô. Chùa Diệu Ðế có vẻ độc đáo riêng, có bốn lầu (hai lầu chuông, một lầu trống và một lầu bia). Nét kiến trúc độc đáo này đã đi vào ca dao Huế: “Đông Ba Gia Hội hai cầu – Có chùa Diệu Đế bốn lầu hai chuông”.

Chính điện là đại giác, tả hữu chính điện là Thiền Đường, phía trước điện dựng gác Ðạo Nguyên hai tầng ba gian, sau gác Ðạo Nguyên có hai lầu chuông trống xây cân đối ở hai bên, chính giữa là lầu Hộ Pháp, sân trong có La Thành, sân trước có hai nhà lục giác, nhà bên tả đặt hồng chung, nhà bên hữu dựng bia lớn khắc bài văn do vua Thiệu Trị soạn. Hệ thống La Thành ngoài chùa Diệu Ðế xây dựng kiên cố, bề thế, trước có Phượng Môn ba cửa, hai bên có cổng nhỏ, ngoài bờ sông có xây bến thuyền khoảng mười bậc lên xuống.

Trước đây, chùa Diệu Ðế có nhiều tượng Phật do được chuyển từ chùa Giác Hoàng, sau sự kiện Kinh đô thất thủ (1885). Cuối năm này, chính phủ Nam Triều đặt sở Đúc Tiền ở Cát Tường Từ Thất, phủ đường Thừa Thiên ở Trí Tuệ Tịnh Xá và một tăng phòng làm nhà lao của tỉnh, một tăng phòng làm trụ sở cho Khâm Thiên Giám. Năm 1887 phần lớn các ngôi nhà trong chùa đều bị triệt hạ…về sau, ngoài cổng La Thành xây thêm bốn trụ biểu.

Hiện nay, chùa chỉ còn chính điện, hai bên chính điện đặt Bát Bộ Kim Cang, phía sau có một nhà khách, một bếp. Sân ngoài có nhà bia, nhà chuông, ngoài cùng là cổng Tam Quan hai tầng, phía trên có lầu Hộ Pháp.

Chùa Diệu Đế ngày nay tuy không còn quy mô tráng lệ như trước đây nhưng vẫn mang giá trị văn hóa, lịch sử sâu sắc, là nơi sinh hoạt tâm linh cho các tăng ni Phật tử, người dân chốn kinh kỳ. Đi du lịch Huế, du khách đừng quên ghé thăm chùa Diệu Đế để tìm được sự thanh tịnh, bình thản trong tâm hồn.

Tổng hợp; Ảnh: Internet

Đánh giá bài viết

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *