Làng nghề đúc đồng Huế ra đời từ những năm đầu của thế kỷ XVII, là một trong những làng nghề truyền thống lâu đời nhất của Cố đô, còn được gọi là Phường Đúc hay Phường thợ đúc. Theo thời gian, nhờ giá trị thẩm mỹ đặc sắc, làng nghề vẫn tiếp tục phát triển và đồng hành cùng nhịp sống của thời đại. Cùng Check in Huế khám phá nhé.
Lịch sử làng nghề đúc đồng Huế
Nghề đúc đồng là một trong những nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng ở Việt Nam. Ở Thừa Thiên Huế, làng nghề đúc đồng Huế nằm ven bờ nam sông Hương, đoạn từ cầu Giã Viên lên phía Long Thọ, cách trung tâm thành phố khoảng 3 km về phía Tây Nam và được hình thành khoảng 300 năm trước.
Theo gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng đúc đồng Phường Đúc thì thủy tổ của nghề đúc đồng nơi đây là cụ Nguyễn Văn Lương, quê làng Đồng Xá, Siêu Loại (tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Vào thế kỉ 17, khi chọn Huế làm nơi xây dựng cơ nghiệp, các chúa Nguyễn đã tập trung thợ khéo cả nước, trong đó có thợ đúc đồng về đây phục vụ việc xây dựng các tư dinh, phủ đệ, đúc khí giới, tiền xu và sản xuất vật dụng phục vụ nhu cầu của phủ chúa.
Thời bấy giờ, dân làm nghề đúc từ các nơi kéo về tập trung sinh sống, hành nghề thành hội thành phường ở làng Dương Xuân nên dân trong vùng quen gọi là “Phường Đúc”, tức phường thợ đúc, rồi lâu dần thành tên gọi. Thời ấy, Phường Đúc có 5 xóm nghề gồm: Trường Đồng, Kinh Nhơn, Bổn Bộ, Giang Dinh, Giang Tiền. Trong đó, Kinh Nhơn và Bổn Bộ là hai xóm có nghề đúc đồng lớn nhất và danh tiếng nhất. Từ đó về sau đến đời các vua nhà Nguyễn, nghề đúc đồng ở Phường Đúc càng có cơ hội phát triển mạnh thêm.

Hiện tại, làng đúc đồng Huế nằm trên địa bàn phường Phường Đúc và một phần của phường Thủy Xuân (thôn Hạ 2 và thôn Thượng 4), thành phố Huế. Hiện, làng đang có 61 cơ sở sản xuất, trong đó Phường Đúc có 35 hộ, 01 hợp tác xã và 01 doanh nghiệp tư nhân; phường Thủy Xuân có 23 hộ, 01 hợp tác xã.
Ngày nay, nghề đúc đồng Huế bước sang một giai đoạn phát triển mới với kĩ thuật và công nghệ cao hơn. Các nghệ nhân đúc đồng ở phường Phường Đúc đã cho thấy tay nghề và sự tài hoa của họ không hề thua kém các bậc cha ông đi trước. Nhiều lớp nghệ nhân ra đời và trở nên nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc và cả ở nước ngoài như các nghệ nhân Nguyễn Văn Sính, Nguyễn Văn Viện, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Trai, Nguyễn Văn Tuệ, Nguyễn Văn Niệm, Lê Văn Sơn,…
Sản phẩm đúc đồng Huế nổi tiếng vang danh
Làng nghề đúc đồng Huế đã cho ra đời nhiều tác phẩm đúc nổi tiếng và còn tồn tại đến ngày nay như Vạc đồng ở Đại Nội (1659 – 1684), Đại Hồng Chung chùa Thiên Mụ (1710), Cửu Đỉnh (1835 – 1804), Cửu Vị Thần Công trước Ngọ Môn (1803 – 1804), Chuông chùa Diệu Đế (1846)… Sức sống lâu bền và giá trị thẩm mĩ trong từng sản phẩm của làng nghề đúc đồng Huế.



Sự phát triển của làng nghề đúc đồng Huế còn được minh chứng bằng những bức tượng Phật bằng đồng với niên đại thuộc đầu thế kỷ XX đang được đặt tại nhiều ngôi chùa nổi tiếng ở Huế, Tượng phật tại chùa Linh Sơn (Đà Nẵng), tượng phật tại Phật học viện Nha Trang, tượng danh nhân Phan Bội Châu cao gần 4m tại khu lưu niệm Phan Bội Châu cùng rất nhiều những vật dụng gắn liền với đời sống tâm linh và cuộc sống thường nhật của người Huế.
Ngoài các sản phẩm truyền thống nổi tiếng xưa nay như chuông, tượng, lư, đèn… các nghệ nhân Phường Đúc hiện nay đã nghiên cứu đúc thành công nhiều sản phẩm độc đáo, có giá trị nghệ thuật lẫn kinh tế cao. Điển hình như tượng danh tướng Trần Hưng Đạo cao 10,2m, nặng 21,6 tấn đặt tại công viên Vị Hoàng, TP. Nam Định; tượng Như Lai cao 4,3m đặt tại chùa Kim Thành, TP.Plây Cu, tỉnh Gia Lai; trống đồng đặt tại Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)…
Đặc biệt, nhân kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Văn Sính và các học trò đã lập kỉ lục khi đúc thành công quả đại hồng chung cho chùa Bái Đính ở Ninh Bình với kích cỡ khổng lồ cao 5,5m, đường kính 3,7m, nặng 36 tấn.

Các sản phẩm của làng nghề đúc đồng Huế có sự gắn bó mật thiết với đời sống tâm linh và thường nhật của người dân Cố đô. Từ những vật dụng dành riêng cho việc thờ cúng như bát hương, lư đồng, tam sự, ngũ sự, cồng chiêng, chuông đồng cho đến những sản phẩm trang trí mỹ thuật, tất cả đều mang đậm dấu ấn của kỹ thuật đúc đồng truyền thống và bàn tay tài hoa của người nghệ nhân đất Kinh kỳ.
Hiện nay, ở phường Phường Đúc mộ và nhà thờ ông tổ nghề đúc đồng đã được nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia. Toàn phường hiện có khoảng 60 hộ làm nghề đúc đồng Huế, thu hút chừng 300 lao động làm việc thường xuyên, sản phẩm không chỉ có chỗ đứng vững chắc ở thị trường trong nước mà đã xuất đi được nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Pháp, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Nepal, đem lại tổng doanh thu gần 10 tỉ đồng/năm.
Lời tâm tình, sự gắn bó với nghề của người dân nơi đây đã lý giải vì sao làng nghề đúc đồng Huế tồn tại và phát triển đến vậy. Cùng với đó, có lẽ chính từ sự tỉ mỉ, yêu nghề của những người thợ nơi đây đã tạo ra vô số những kiệt tác về đồ đồng, để rồi, làng nghề đúc đồng Huế đã không đơn thuần chỉ là làng sản xuất, kinh doanh mà còn là một địa điểm du lịch được nhiều người biết đến.
Ảnh: Internet
Tin khác